Lưới địa kỹ thuật – Ứng dụng lưới địa 1 trục, 2 trục, 3 trục
Lưới địa kỹ thuật là một trong những loại vật liệu địa kỹ thuật có tính ứng dụng cao và được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Tương ứng với những yêu cầu kỹ thuật khác nhau, nhà thiết kế có các lựa chọn lưới địa 1 trục, 2 trục hoặc lưới địa 3 trục.
Lưới địa kỹ thuật là gì?
Lưới địa kỹ thuật được sản xuất đầu tiên năm 1978 tại Anh, bởi công ty Netlon (và hiện giờ là tập đoàn Tensar International). Sau đó đến Stabilenka của Hà Lan. Lưới địa KT giống như tờ bìa dày có lỗ, có thể cuộn tròn lại.
Lưới địa được làm bằng chất polypropylen (PP), polyester (PE) hay bọc bằng polyetylen-teretalat (PET) vói phương pháp ép và dãn dọc. Vật liệu dùng làm lưới địa có sức chịu kéo đứt rất lớn 40.000 psi (so với sắt là 36.000 psi).
Các nhóm lưới địa kỹ thuật
Lưới địa được chia thành 3 nhóm, dựa trên sự khác biệt về cường độ và phương chịu lực.
Lưới địa kỹ thuật một trục
Lưới địa kỹ thuật một trục hay còn gọi là lưới địa một phương. Là vật liệu địa kỹ thuật có sức kéo theo hướng dọc máy. Phương chiều dài cuộn cao và biến dạng nhỏ , thường để gia cố mái dốc, tường chắn v.v.
Lưới hai trục
Khác với lưới 1 trục, lưới địa kỹ thuật hai trục là vật liệu địa kỹ thuật cường độ chịu kéo theo hai phương. Với thông số cường độ cao và độ biến dạng nhỏ, lưới địa 2 trục thường dùng để gia có nền đường, nền móng công trình v.v…
Lưới ba trục
Lưới địa kỹ thuật được sản xuất từ một tấm polypropylene được đóng lỗ và kéo theo ba hướng thẳng để cho ra đời những gân lưới có mức độ cao trong việc định hướng phân tử, với vô số những mấu lưới nguyên vẹn liên tiếp.
Phương pháp sản xuất lưới địa
Có 2 phương pháp sản xuất lưới địa, cụ thể:
Phương pháp sản xuất đầu tiên là các tấm nhựa mỏng bằng nguyên liệu HDPE hoặc Polypropylene (PP) được ép, đụt lỗ dựa trên chương trình lập trình sẳn, sau đó được dãn dọc theo hai phương, định hướng các sợi polimer, tạo cường lực chịu kéo.
Phương pháp sản xuất thứ hai là các sợi polyester (PET) hoặc Polypropylene (PP) có độ bền và cường lực cao được bện, xoắn lại lới nhau thành từng bó, được đan hoặc dệt lại theo phương thức các nút giao giữa phương dọc và phương ngang có thể co dãn được. Sau đó, lưới địa được phủ một lớp bảo vệ bên ngoài, tùy vào nhà sản xuất, có thể phủ lớp polyvinyl chloride (PVC), lớp bitum hoặc hạt nhựa tổng hợp.
Ứng dụng lưới địa kỹ thuật
Tường chắn trọng lực: Sau khi trải lớp vải địa kỹ thuật, người ta dùng lưới địa trải nằm ngang,liên kết với các tấm hoặc các khối ốp mặt ngoài nhằm chống lại các lực cắt của khối sụt trượt tiềm năng, và có thể xây các tường chắn cao tới 17 m với mái dốc đến 90 độ.
Mái dốc
Lưới địa kỹ thuật được trải thành từng lớp nằm ngang trong thân mái dốc để tăng khả năng ổn định, khống chế sụt trượt. Mặt ngoài của mái dốc có thể được neo bằng chính lưới địa hoặc chắn bằng các bao tải đất hoặc thảm thực vật nhân tạo chống xói mòn bề mặt. Mái dốc xây dựng theo phương pháp này có thể đạt tới độ cao 50 m.
Đường dẫn đầu cầu
Giống như tường chắn trọng lực, lưới địa kỹ thuật được trải thành từng lớp ngang, neo giữa các tấm ốp mái ở hai mái đường dẫn đầu cầu, vừa tăng khả năng chịu tải đồng thời tiết kiệm không gian hai bên đường dẫn.
Liên kết cọc
Sau khi đóng cọc móng, lưới được trải trên các cọc, tạo ra một giàn đỡ truyền tải trọng từ các công trình bên trên tới tất cả các cọc một cách hiệu quả, đồng thời giúp tiết kiệm được số lượng cọc sử dụng.
Tạo lưới đỡ trên nền có nhiều hốc trống
Lưới được sử dụng phủ nền có nhiều hốc trống, phần nền đá vôi, phần nền có nhiều vật liệu khối lổn nhổn… hạn chế sụt lỗ rỗng, bảo vệ các lớp lót như màng chống thấm (ô chôn lấp rác, hồ chứa trên núi đá đồi, vùng mỏ, v.v.)
Tăng ma sát trên mái dốc
Nhằm tăng ma sát của vật liệu đắp trên mái dốc có trải các lớp màng chống thấm trơn hoặc vật liệu địa kỹ thuật khác.